Hội Cựu Học Sinh Trung Thu

XUÂN Ý
KHAI BÚT
TRANG BÌA
ÁO TRẮNG
CHÚC XUÂN
ĐẦU NĂM ĐÓN LỘC
BÓI QUẺ ĐẦU XUÂN
ĐỐT PHÁO GIAO THỪA
CÁC MÓN ĂN NGÀY TẾT
NGUỒN GỐC CÂU ĐỐI TẾT
NHẠC: MỪNG XUÂN ĐẾN - ĐQT
NHỮNG PHONG TỤC ĐẸP NGÀY TẾT
MÓN ĂN CỔ TRUYỀN Ở CÁC XỨ Á CHÂU
NGƯỜI CON GÁI HÙM THIÊNG YÊN THẾ
TRANG ĐIỂM DƯỚI NẮNG XUÂN
NHỮNG LÁ THƯ KHÔNG TÊN
NĂM DẦN NÓI CHUYỆN CỌP
PHONG TỤC NGÀY TẾT
CON BƯỚM THIÊN THU
CHỢ HOA NGÀY XUÂN
CHUYỆN TÌNH CƯ XÁ
MÓN QUÀ ĐẦU NĂM
CON ÉN MÙA XUÂN  
SỰ TÍCH ÔNG TÁO  
SỰ TÍCH HOA MAI  
BẦU CUA CÁ CỌP  
TẾT MIỀN TRUNG  
TRUYỆN NGẮN  
CHUYỆN CƯỜI  
HÁT SẮC BÙA 
THIỆP XUÂN 
THỦY TIÊN 
LỊCH 2010 
BÁNH TÉT 
THƠ 
HCHS - TT 

 

                                      

     Theo nhiều sử sách Trung Hoa cho biết, thì vào thời Hoàng Đế, trên núi Độ Sóc ở biển Đông, có một cây Đào thần kỳ, có hai vị thần tên gọi Thần Đồ và Uất Lũy chuyên cai quản lũ quỷ dữ, con quỷ nào quậy phá quá thì bị hai vị thần dùng thừng bện bằng cây sậy bắt trói đem cho hổ ăn. Do đó, Hoàng Đế đã sai người lấy gỗ đào tạc hình Thần Đồ, Uất Lũy và con hổ, lại gài cả thừng bằng sậy vào đó, rồi để bên cửa để trừ tà đuổi quỷ, tục gọi là Môn thần (Thần canh cửa).

Vào thời Chiến Quốc, vùng Trung Nguyên đã thấy có tục này, lâu dần về sau đã trở thành phong tục phổ biến trong dân gian. Cứ vào dịp Xuân về, lại có tục vào ngày mồng Một tháng Giêng, mỗi nhà lấy mảnh gỗ Đào vẽ tượng trưng hình hai vị thần nói trên, gọi là bùa Đào (Đào phù) để treo lên cửa, lại dán cả tranh vẽ gà và treo chiếc thừng sậy lên cửa để trừ tà, trừ bách quỷ.
Về sau, người ta chỉ viết tên Thần Đồ, Uất Lũy lên mảnh gỗ đào mà không cần vẽ hình. Đến thời Ngũ Đại Hậu Thục (919-965), Thục chúa là Mạnh Sưởng đã đích thân cầm bút viết lên mảnh gỗ đào hai vế đối:


Nghĩa là:
Năm mới tụ phúc lớn
Tiết đẹp gọi xuân dài

Mọi người cho đây là đôi câu đối Tết sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Người Trung Hoa từng gọi câu đối Tết với nhiều tên gọi khác nhau: Xuân liên, đối liên, môn đối, đối tử... Song tên gọi Xuân liên là phổ biến hơn cả.
Ở Việt Nam thời trước, câu đối thường được gọi là đối liễn. Từ đời Tống trở đi, cứ đến dịp Tết Nguyên đán thì các nho sĩ lại đua nhau làm câu đối mừng Xuân mới. Nhà thơ lớn đương thời là Tô Đông Pha (1036-1101) còn để lại một giai thoại hết sức thú vị về việc làm câu đối Tết. Truyện kể rằng, nhân dịp dọn nhà mới vào đúng dịp năm mới, Tô Đông Pha đã làm một đôi câu đối như sau:


Nghĩa là:
Năm mới, cảnh mới, nhà mới
Gió xuân, mưa xuân, sắc xuân

Sau khi đôi câu đối được dán lên hai bên cổng, kẻ qua người lại đều tỏ ra thích thú về cái ý mùa Xuân và năm mới. Thế rồi đến sáng hôm sau, đôi câu đối đã bị bóc trộm mất. Tô Đông Pha vừa tức cười kẻ nào đó, vừa bực mình vì phải mất công viết lại. Ông bèn viết hẳn một đôi câu đối có nội dung khác:


Nghĩa là:
Phúc không hai lần tới
Họa chẳng một phen về

Bà vợ nhà thơ cằn nhằn rằng câu đối Tết mà viết thế thì xúi quẩy lắm. Mà có lẽ mọingười cũng nghĩ như bà vợ nhà thơ, nên qua đêm câu đối vẫn còn, không bị ai bóc trộm nữa. Còn Tô Đông Pha thì chỉ cười thầm, rồi ông lấy bút mực viết nối thêm vào đôi câu đối mấy chữ thành hai câu như sau:


Nghĩa là:
Phúc không hai tới sớm nay tới
Họa chẳng một đi đêm qua đi

Đây chẳng qua là một định kiến trong dân gian, nên từ lâu đã có câu "Họa vô đơn chí/ Phúc bất trùng lai" (Họa không một lần tới/ Phúc chẳng hai phen về). Song nhà thơ Tô Đông Pha lại muốn nói khác đi, muốn xóa tan cái định kiến đó: Phúc vẫn đến hai lần, hôm qua đến rồi, sớm nay lại đến; còn họa chẳng tới lần nào, bởi từ đêm qua nó đã đi mất tăm rồi...
Đó là giai thoại về các danh sĩ tham gia viết câu đối Tết ở thời Tống. Còn theo một số tài liệu khác cái tên “Xuân liên” được định danh chính thức trong phong tục đón năm mới lại do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đặt cho. Tương truyền, sau khi định đô ở Nam Kinh, Minh Thái Tổ đã hạ lệnh cho mọi người vào trước đêm 30 Tết đều phải làm đôi câu đối dán ở cổng. Nhà vua vi hành các phố phường để kiểm tra. Chuyện còn kể rằng, khi nhà vua tới một phố nọ, thấy nhà một người làm nghề hoạn lợn chưa có câu đối Xuân, hỏi ra được biết chủ nhà cảm thấy nghề hèn mạt nên không muốn viết câu đối, nhà vua đã nói lời khích lệ rồi làm cho chủ nhà một đôi câu đối như sau:


Nghĩa là:
Hai tay mở toác đường sinh tử
Một búa phanh phui gốc thị phi

Câu đối dán lên, nhân dân kinh thành đều trầm trồ, không ngờ nhà anh thiến lợn mà lại có đôi câu đối Tết đầy khí phách như thế. Như vậy, từ đời Minh, câu đối Xuân/ Tết bắt đầu được thịnh hành như một phong tục, và bắt đầu được viết phổ biến trên giấy thay vì viết trên mảnh gỗ Đào như xưa kia. Thời bấy giờ, người Trung Hoa thường hay dùng giấy đỏ để viết câu đối Tết, hoàng cung và tôn thất dùng giấy trắng, mép viền đỏ/ xanh.
Điều thú vị là sách Yên Kinh tuế thì ký còn cho biết: Cứ vào khoảng cuối tháng Chạp hàng năm, một số văn nhân mặc khách, nhất là các thư pháp gia lại đến ngồi dưới mái hiên hè phố, để viết thuê câu đối Tết, vừa có dịp phô bày tài nghệ vừa kiếm thêm chút tiền lộc đầu Xuân...
Đó là nói về mặt cội nguồn và ý nghĩa sâu xa của câu đối Tết như là một phong tục ngày Xuân. Còn về mặt văn học thì đúng như Dương Quảng Hàm đã nhận định: một đặc tính của văn chương chữ Hán (Trung Quốc, Việt Nam) là phép đối, không những là văn vần (thơ, phú) mà các loại biền văn (câu đối, tứ lục, kinh nghĩa) và đến cả văn xuôi nhiều khi cũng đặt thành hai câu đối nhau, hoặc hai đoạn trong một câu đối nhau. Về phép đối trong thuật làm câu đối, Dương Quảng Hàm cũng cho biết sơ lược về các phép đối ý (nội dung tư tưởng), đối chữ (tự loại), đối thanh (bằng, trắc)...
Đó là nói qua về phép làm câu đối nói chung (trong đó có câu đối Tết). Còn về treo/ dán câu đối cũng có phép tắc của nó, không thể tùy tiện muốn treo/ dán thế nào cũng được. Trong một đôi câu đối bao giờ cũng có hai vế, được gọi là vế "thượng" và vế "hạ", tức vế trên và vế dưới, vế thượng (trên) phải treo/ dán bên hữu (phải), còn vế hạ (dưới) thì treo/ dán bên tả (trái). Còn muốn biết vế nào là thượng, vế nào là hạ thì chỉ cần xem chữ cuối cùng; nếu là thanh trắc (sắc, nặng, hỏi, ngã) thì đó là vế thượng; còn thanh bằng (dấu huyền hoặc không dấu) tức là vế hạ (Trong thực tế, không phải ai cũng nắm vững quy tắc này khi treo hay dán câu đối Tết, cũng như câu đối nói chung).
Như vậy, bắt nguồn từ tục treo bùa đào (đào phù), câu đối Tết trong quá trình diễn biến lịch sử đã kết hợp với các thể loại văn học chữ Hán để trở thành một thể loại độc lập có chức năng và đặc trưng riêng. Việt Nam - Trung Quốc, do hoàn cảnh địa lý - lịch sử, nên văn hóa - phong tục có nhiều điểm gần gũi.

Tuy nhiên, tục chơi câu đối Tết của Trung Hoa truyền sang ta từ lúc nào không thấy sử sách cũ ghi chép. Song căn cứ vào bài thơ Nôm Tứ thời khúc vịnh của Hoàng Sĩ Khải được viết khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII còn có câu rằng: Đào phù cấm quỷ phòng linh ngăn tà, thì có thể biết tục treo bùa đào (hình thức tiền thân của câu đối Tết) cũng đã từng xuất hiện ở Việt Nam thời này. Còn theo nhiều sử sách cũ thì vào thời Lê Thánh Tông (1460) có khá nhiều giai thoại phản ánh việc nhà vua đi vi hành ở kinh thành Thăng Long để xem câu đối Tết của phường phố. Và bấy giờ, nhà vua từng làm câu đối Tết cho các nhà dân làm nghề thợ nhuộm, hót phân... Như thế, có thể biết chắc chắn rằng, ít ra từ thời Lê Thánh Tông, tục chơi câu đối Tết ở Việt Nam đã rất thịnh hành.

 

WL Sưu tầm


Báo Xuân Canh Dần 2010 -  Hội Cựu Học Sinh Trung Thu